Tổ Ma-ha Ca-diếp
Thuở bé, ngài dung nghi tuấn nhã, toàn thân phát sáng màu vàng, chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói: “Đứa bé này đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia”. Cha mẹ ngài nghe nói lo sợ, cùng nhau thầm bàn “sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí của nó”.
Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bề từ chối. Sau cùng, bất đắc dĩ, ngài phải nói: “Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mới ưng cưới”.
Cha mẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước, tìm người nữ nào giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài. Thế là ngài phải lập gia đình.
Bởi đời đức Phật Tỳ-bà-thi, sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày trên mặt pho tượng bị lở khuyết. Khi ấy, ngài Ca-diếp là thợ đúc vàng. Có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ ngài nấu ra để phết lại tượng Phật. Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc này. Nhân đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri kỷ, chứ không vì tình dục.
Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn màu vàng. Sau, sanh cõi Phạm Thiên, hết phước cõi Phạm Thiên chết, sanh về cõi này trong nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại.
Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri kỷ, không có ý dâm dục. Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng, ngài liền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu hạnh đầu-đà.
Một hôm, nhân nghe trong hư không có tiếng bảo: “Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo”, ngài liền tìm đến tinh xá Trúc Lâm, chí thành đảnh lễ Phật. Phật bảo: “Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi!”.
Ngài liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y ca-sa. Từ đây, ngài theo Phật hiểu sâu giáo pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-la-hán.
Có lần, ngài từ xa đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ-kheo ngồi vây quanh Phật, trông thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý thầm khinh. Phật biết, bèn bảo: “Ca-diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ngươi”. Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Ta có đại từ đại bi, các thiền định tam muội và vô lượng công đức để tự trang nghiêm, Tỳ-kheo Ca-diếp này cũng như thế. Do đó, ta nhường nửa tòa cho Ca-diếp ngồi”. Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, cúi đầu cung kính ngài.
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh Sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu). Phật bảo: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ Chánh pháp này, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-nan”.
Thế Tôn đến trước tháp Đa Tử gọi Ma-ha Ca-diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-già-lê quấn vào mình Ca-diếp, rồi nói kệ phó pháp:
Pháp bản pháp vô pháp,
Vô pháp pháp diệc pháp.
Kim phó vô pháp thời,
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp,
Pháp không pháp cũng pháp,
Nay khi trao không pháp,
Mỗi pháp đâu từng pháp.
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên: “Ca-diếp tuổi đã già, nên ở một chỗ nhận những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn”.
Ngài bạch Phật: “Con tuy già yếu, song không dám ở một chỗ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ-kheo đời sau sẽ nói: ‘Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường’, rồi họ sanh phóng túng”.
Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-thi-na trong rừng Sa-la, thì ngài đang ở trong động Tất-bát-la trên núi Kỳ-xà-quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành Câu-thi-na. Đến nơi, đã để Phật vào kim quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.
Sau khi thiêu thân Phật xong, ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo: “Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau”.
Ngài bèn nói kệ:
Như Lai đệ tử,
Thả mạc Niết-bàn.
Đắc thần thông giả,
Đương phó kết tập.
Dịch:
Đệ tử Như Lai,
Chớ vội Niết-bàn.
Người được thần thông,
Nên đến kiết tập.
Thế là, sau Phật Niết-bàn 3 tháng, ngài triệu tập 500 vị đại A-la-hán tụ họp tại núi Kỳ-xà-quật, trong động Tất-bát-la kết tập. Chỉ có tôn giả A-nan không được dự hội, vì chưa sạch các lậu. Tôn giả A-nan buồn bã, suốt đêm chuyên tâm thiền định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-la-hán. Sau đó, tôn giả được mời dự hội.
Ngài thưa toàn chúng: “Tỳ-kheo A-nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời kết tập tạng Kinh và tạng Luận. Mời Tỳ-kheo Ưu-ba-ly kết tập tạng Luật”. Toàn chúng đều hoan hỷ chấp thuận. Hội kết tập này, ngài là chủ tịch.
Sau cuộc kết tập này viên mãn, nhân duyên độ sanh đã xong xuôi, ngài thấy tuổi quá già yếu, bèn gọi tôn giả A-nan đến bảo: “Khi Như Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem Chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt”.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê Túc nhập định. Liền đó, ngài đi từ giả vua A-xà-thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp: Người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh
“Ma Ha Ca Diếp”: Ma Ha, nghĩa là “đại” (lớn); Ma Ha Ca Diếp chính là “Đại Ca Diếp”. Theo lịch sử Phật giáo, ngài Ma Ha Ca Diếp sinh ra trong gia đình phú hào Ni Câu Lự Đà Kiệt Ba thôn Sa La Đà, nước Ma Kiệt Đà, vốn tên là Tất Bát La Da Na vì thân mẫu ngài đi chơi quanh gốc cây Tất Bát La thì hạ sinh ngài nên lấy tên cây đặt cho con.
Đại Ca Diếp phước tướng đầy đủ, tư chất thông minh, 8 tuổi học văn học, toán thuật, thi họa, âm nhạc, thiên văn, tướng số… cùng các phép tế đàn 4 mùa, thánh điển Vệ Đà… đều thấu hiểu rất nhanh. Lớn lên Đại Ca Diếp thường thích xa đám đông, riêng ở một mình.
Khi phải vâng lời cha mẹ lập gia đình, Ma Ha Ca Diếp cũng không chung giường với người vợ mới cưới là Diệu Hiền, một cô gái sắc nước hương trời, từ ngày cưới cho đến hơn chục năm về sau không ai nói với ai một lời nào. Im lặng lâu quá không thể nín thinh mãi được, Ma Ha Ca Diếp hỏi Diệu Hiền lý do tại sao mặt lúc nào cũng buồn, Diệu Hiền trả lời: “Chàng đã phá hoại chí nguyện của tôi, sự giàu sang của chàng đã mê hoặc cha mẹ tôi, từ trước tôi vẫn thích phạm hạnh, ghét ngũ dục, nên hiện làm dâu gia đình nầy tôi rất lấy làm buồn!”. Nghe ước vọng của Diệu Hiền, Ma Ha Ca Diếp nói: “Thế là hai ta cùng chung một ước nguyện, nhìn về một hướng. Tôi vẫn không thiết tha với việc lập gia đình, nhưng vì là con một tạm để cho cha mẹ khỏi buồn, tôi phải tạm theo ý của gia đình mà thôi. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục sống theo phạm hạnh và dù là vợ chồng chúng ta cũng giữ sự thanh tịnh”.
Mãi 12 năm sau, khi cha mẹ đều từ giã cõi đời, Ma Ha Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu Hiền khi tìm được minh sư.
Giữ hạnh “Đầu đà”
Năm 30 tuồi, Ma Ha Ca Diếp vào rừng tìm đạo thì cũng là lúc Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề. Nghe tiếng Đức Phật, Ma Ha Ca Diếp tìm đến thành Vương xá, ngày ngày theo Thánh chúng đến nghe pháp. Đức Phật nhìn xuống thấy và biết Ma Ha Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.
Tại hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa lên một cành hoa, Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc kế thừa sau này. Một hôm, sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường tắt đón Ma Ha Ca Diếp ở một ngã đường, Ma Ha Ca Diếp chính thức bái yết Phật, theo Phật trở lại Tinh Xá Trúc Lâm, được Đức Phật đem pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên mà khai thị cho.
Vốn thích tu hạnh “Đầu đà” sau khi gặp Phật, Ma Ha Ca Diếp tiếp tục thực hành pháp tu phạm hạnh. Hạnh “đầu đà” có năng lực tịnh hóa tâm hồn, nhưng khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều: Chọn ở nơi hoang vắng; sinh hoạt bằng phép trì bình; thường ở tại một nơi; ngày ăn một bữa; khất thực không phân biệt giàu nghèo; tài sản gồm có 3 y (áo), một bình bát; tư duy dưới gốc cây; thường ngồi giữa đồng trống; mặc áo phấn tảo; sống tại các bãi tha ma.
Trong 10 điều kiện trên, Ma Ha Ca Diếp tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều, riêng khất thực thì chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo. “Người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng”- Ma Ha Ca Diếp lý giải. Hạnh “đầu đà” được Ma Ha Ca Diếp giữ cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được, cho nên được tôn xưng là bậc “Đầu đà đệ nhất”.
Tiếp độ thân sơ
Sau khi Đức Phật cho di mẫu của mình xuất gia hiệu là Kiều Đàm Di, trở thành vị nữ đầu tiên trong giáo đoàn của Phật, Ma Ha Ca Diếp nhờ một tỳ kheo ni đi đón nàng về ni viện. Vì sắc đẹp kiều diễm, Diệu Hiền không tránh khỏi sự xì xầm nơi chốn đông người, đành bỏ không ra ngoài khất thực, không tiếp xúc với đại chúng, tránh chỗ đông đảo. Thế là hàng ngày Ma Ha Ca Diếp chia nửa phần cơm, nhờ người mang đến cho Diệu Hiền.
Những người tò mò có tính thị phi lại sinh tâm tật đố, cho là giữa hai người chắc còn tình ý. Để tránh tiếng, Ma Ha Ca Diếp không chia phần cơm cho Diệu Hiền nữa; còn tỳ kheo ni Diệu Hiền ngày đêm không ăn ngủ, tịnh tọa sám hối tấn tu đạo nghiệp, chứng được Túc mạng thông, được Đức Phật khen ngợi.
Một hôm vào thành Vương Xá khất thực, Ma Ha Ca Diếp thấy một bà lão ăn mày đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, nên ân cần thăm hỏi.
Bà lão đáp: “Ngài có gì cho tôi không? Sao tôi thấy Ngài cũng có vẻ nghèo và mang bát đi xin ăn, tôi chẳng có gì cho Ngài cả. Thế Ngài có phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?”.
“Tôi là một Tỳ kheo đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh nên cũng đi xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý”- Ma Ha Ca Diếp trả lời. “Nghèo thì lấy gì để bán? Đã ba ngày qua tôi không có chút gì để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước cơm, tôi hứng được một tí đỉnh, nhưng nước đã có mùi chưa dám uống sợ tháo dạ”. “Thế bà đem nước đó bố thí cho tôi chút đỉnh, gọi là gieo trồng phước đức, hy vọng tương lai gặp may mắn, trở nên giàu có”. Nghe giảng giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên cả sự ô uế của thân mình, đem mẻ nước cơm dâng cúng cho Ca Diếp. Ngài hoan hỷ tiếp nhận, chúc phúc cho bà rồi lên đường hành hóa.
Thừa kế Đức Phật
Thấy Ma Ha Ca Diếp đạo cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể. Trọn giữ hạnh đầu đà, lúc nào Ma Ha Ca Diếp cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc cây, quán xương trắng ở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa, sương gió… mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc vẫn không bao giờ chểnh mảng.
Thực hành phạm hạnh đầu đà là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp lợi lạc chúng sinh, củng cố tăng đoàn là điều kiện thừa kế Đức Phật. Phật dạy rằng: “Này các Tỳ kheo! Đại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chính pháp. Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chính pháp, nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh là điều kiện chính làm cho chính pháp tiêu diệt, “Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử.” Vì thế nếu Tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chính pháp được trường tồn. Để củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chính pháp của ta phải là Ma Ha Ca Diếp”.
Kết tập kinh điển
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 7 ngày, Ma Ha Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kết tập kinh điển trong suốt 3 tháng. Đại chúng nhất trí đề cử Ma Ha Ca Diếp làm chủ tọa.
Sau cuộc kết tập kinh điển, khoảng hai hoặc ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể đã già yếu, mệt mỏi vì đã trên trăm tuổi, Ma Ha Ca Diếp quyết định nhập Niết Bàn. Ma Ha Ca Diếp tìm đến nơi A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chính pháp, rồi đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ lạy cúng dường. Sau đó Ma Ha Ca Diếp mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và nhập Niết Bàn.
Mặc dù tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã nhập Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng nếp sống đạo đức, phạm hạnh của tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời gian… Suốt cả cuộc đời, tôn giả Ma Ha Ca Diếp trở thành một con người gương mẫu trong giáo đoàn, phẩm hạnh có tầm ảnh hưởng rất rộng. Đức Phật cũng vị nể xem tôn giả như bạn, có lần Phật đã nhường nửa tòa ngồi giảng pháp cho tôn giả. Gương của Ma Ha Ca Diếp chính là, người có tư cách đạo đức bao giờ cũng được kính nể, ngược lại không tư cách đạo đức dù giàu mạnh đến đâu, cuối cùng cũng bị cuộc đời đào thải.
Mặc dù tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã nhập Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng nếp sống đạo đức, phạm hạnh của tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời gian…
Đường tu khổ hạnh của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là trong 10 đệ tử lớn của Đức Phật, con của ông Âm Trạch và mẹ là bà Hương Chí, nước Ma Kiệt Đà, khi mẹ sanh ra ngài, ngài toàn màu vàng và sáng ánh.
Khi 22 tuổi cha me bảo cưới vợ, ngài không chịu, cha mẹ ép quá, nên ngài đặt điều kiện với cha mẹ ngài như sau: Nếu cha mẹ tìm được cô gái nào có nàn da như con, thì con mới bằng lòng cưới vợ.
Cha mẹ ngài liền cho đúc một pho tượng bằng vàng, đẩy đi khắp nơi tìm người nào có nàn da giống như pho tượng. Khi pho tượng đẩy đến thị trấn Hàn Thuật Trung, có gia đình ông Phương Thủy Ái vợ là Liễu Ánh Phương, có nàng con gái 20 tuổi là Hàn Phương Nga, có nàn da y như pho tượng nên ngài đành chấp nhận cưới nàng.
Khi hai người cưới nhau, ngài có trình bày cùng vợ thật tình trong tâm mình không muốn cưới vợ nên đặt điều kiện khó này ra, không ngờ lại gặp được nàng vậy nên ngài mới xin nàng hãy cùng làm bạn tri kỷ với mình, không theo dâm dục thường tình. Nàng Hàn Phương Nga đồng ý, hai người sống chung với nhau được 2 năm. Sau đó ngài xin cha mẹ cho ngài và vợ xuất gia, cha mẹ bằng lòng, hai người vào núi tu hạnh đầu đà, tức tu khổ hạnh.
Ma Ha Ca Diếp là vị tổ thiền tông thứ nhất |
Ngài xuất gia được một năm, một tối nọ ngài nằm mơ có một vị đầu tóc bạc bảo: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời, hiện ở tịnh xá Trúc Lâm, ông nên đến đó để xin dạy pháp môn tu giải thoát. Ngày sau ngài đến tịnh xá Trúc Lâm chí thành đảnh lễ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Lành thanh, này tỳ kheo Ma Ha Ca Diếp, đến đây, Như Lai nhờ người cạo râu tóc cho ông”. Khi ngài được những vị tang trong đoàn cạo râu tóc xong, Đức Phật cho ngài thọ giới tỳ kheo và mặc y cà sa, không bao lâu ngài tu chứng được qủa vị A La Hán. Vì ngài tu khổ hạnh nên thân hình tiều tụy, ăn mặc dánh dưới, nên trong tăng đoàn ai ai cũng chê cười.
Ma Ha Ca Diếp lớn tuổi hơn Đức Phật
Khi Đức Phật giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa xong, Đức Phật đã 78 tuổi còn ngài 79 tuổi. cũng là thời cơ truyền bí mật thiền tông cho vị tổ thứ nhất, nên một buổi sáng mùa xuân trên mặt bằng rộng lớn núi Linh Sơn. Đức Phật tập họp đông đảo đồ chúng, tay phải Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài ngó từ phải qua trái, từ gần ra xa, mọi người ai cũng ngơ ngác, riêng ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm miệng cười, đức phật hỏi ông Ma Ha Ca Diếp: “Tất cả mọi người không cười sao ông lại cười?”
Ngài Ma Ha Ca Diếp trình với Đức Phật: Kính bạch đức thế tôn, nhờ đức thế tôn tay cầm cành hoa sen đưa lên, nên con đã nhận ra tánh thấy chân thật của con, con mừng quá nên con cười.
Đức Phật hỏi: Ông thấy thế nào? Ngài Ma Ha Ca Diếp không trả lời mà trình thưa với Đức Phật bằng 44 câu kệ: Ngài Ma Ha Ca Diếp trình với đức phật 44 câu kệ mà ngài đã đạt được bí mật thiền tông nhân ngài nhìn thấy cành hoa sen trên tay Đức Phật.
Đức Phật nói với các bị tỳ kheo và đại chúng: Này các tỳ kheo và đại chúng, hôm nay Như Lai kiểm thiền thanh tịnh bằng cành hoa sen, 1250 các ông, duy nhất chỉ có ông Ma Ha Ca Diếp nhận được chánh pháp nhã tạng, Niết bàn diệu tâm. Đây là pháp môn mầu nhiệm mà Như Lai dạy nơi thế giới này.
Như Lai dạy dõ pháp môn thanh tịnh thiền này được truyền như sau:
1- Việc chuyền thiền thanh tịnh này đúng 15 ngày sau, Như Lai sẽ làm lễ truyền thiền thanh tịnh cho ông Ma Ha Ca Diếp, để thay Như Lai dạy pháp môn thanh tịnh thiền này khi Như Lai diệt độ.
2- Ông A Nan Đà cùng các đệ tử lớn của Như Lai, thiết lập bàn hương và vật phẩm, để Như Lai làm lễ truyền thiền thanh tịnh, trước sự chứng minh của 10 phương chư Phật, các ông hãy tựu hội về cho đầy đủ.
Vì sao các ông phải tựu hội? Vì đây là buổi lễ truyền thiền thanh tịnh đầu tiên, cũng đồng nghĩa dòng chảy của mạch nguồn thanh tịnh thiền của Như Lai đã khởi đầu tại đây. Mạch nguồn thanh tịnh này được 35 đời tổ nữa được phân chia như sau: – Ở nước Ấn Độ có 28 đời tổ. -Nước lớn phương đông có 5 đời tổ. -Nước nhỏ phương đông có 3 đời tổ, gọi là nước rồng. Đến đây mạch nguồn thanh tịnh thiền, bị lãng quên, mãi đến đời Mạt thượng pháp, ở tại đất rồng mới có người nhận lại được, người này cho pháp môn thanh tịnh thiền phổ biến đi năm châu.
3. Ông Ma Ha Ca Diếp, khi ông sắp tịch diệt, ông hãy truyền lại pháp môn này cho ông A Nan Đà làm tổ đời thứ 2. Như Lai dạy các ông như sau: Khi ông A Nan Đà nhận tổ vị thứ 2 phải đổi là Thiền Tông.
Vì sao phải đồi?
Vì pháp môn thanh tịnh thiền này, bắt đầu khởi dòng thiền của nó, tức nó được truyền theo tông pháp thiền rõ ràng. Lần đầu tiên Như lai truyền thiền thanh tịnh, người dự bao nhiêu cũng được, nhưng khi ông Ma Ha Ca Diếp truyền lại cho ông A Nan Đà, chỉ có ông A Nan Đà, ông Xá Lợi Phất và các đệ tử lớn của Như lai dự thôi. Vì sao chỉ có ông Xá Lợi Phất và các đệ tử lớn cũng như những cư sĩ hiểu được thanh tịnh thiền mới dự?
Vì ông Xá Lợi Phất đã được rơi vào bể tánh thanh tịnh, đồng nghĩa ông đã được vượt hơn cả bí mật thiền tông, nhưng vì ông Xá lợi Phất chưa nhanh bằng ông Ma Ha Ca Diếp, hơn nữa ông Xá Lợi Phất đến ngày ông A Nan Đà nhận tổ vị thứ 2 ông Xá Lợi Phất đã trên 90 tuổi rồi, còn các đệ tử lớn cũng như những cư sĩ các vị này đã hiểu được căn bản của pháp môn thiền thanh tịnh. Nếu nói theo thanh tịnh thiền, các vị này chỉ giác ngộ yếu chỉ thiền tông thôi.
Vậy ngày trăng tròn tháng 2 này, như lai sẽ chính thức hành lễ truyền thiền thanh tịnh cho ông Ma Ha Ca Diếp, vậy các ông mỗi người một việc no buổi lễ này cho chu đáo, ai lo việc gì cố gắng cho tốt.
Sáng ngày trăng tròn tháng 2, ban sáng ánh nắng mặt trời nắng gắt chói chang, nhưng khi mặt trời vừa nhô lên lưng chừng núi, cũng là lúc Đức Phật và các đệ tử của ngài, cũng như tất cả các ưu bà tắc ưu bà di tập họp đông đủ. Bất ngờ trên không trung mây ngũ sắc bao quanh núi Linh Sơn, làm bầu trời sáng rực và mát dịu.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mặc áo choàng lấp lánh ánh hào quang, từ từ bước lên lễ đài và nói: “Kính lạy Đức Phật cổ Nhiên Đăng và mười phương chư phật đã thành phật trước tôi. Hôm nay tại mặt bằng rộng lớn nơi núi Linh Sơn nơi cõi ta bà này. Tôi là Bồ Tát hộ minh, từ cung trời Đâu Suất, xuống trần gian này làm con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da, được đức vua và hoàng hậu đặt cho cái tên là Tất Đạt Đa, tôi tu đã đạt được vô thượng chánh đẳng chánh giác, biết được 6 pháp môn tu nơi thế giới dục giới này, trong đó có 6 pháp môn tu theo vật lý, có kết quả theo chiều vật lý, một pháp môn tu phi vật lý, tức tu để được giác ngộ, dồi giải thoát ra khỏi thế giới dục giới này.
Ông Ma Ha Ca Diếp là đệ tử lớn của tôi, khi tôi kiểm thiền, ông đã đạt được bí mật thanh tịnh thiền, vì vậy hôm nay tại lễ đài nơi núi Linh Sơn nơi cõi Nam Diêm Phù Đề này, trước sự chứng minh của Đức Phật cổ Nhiên Đăng là vị sư phụ đã thọ ký cho tôi sẽ thành phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, cũng như hằng hà sa số chư phật mười phương, tức những vị đã thành phật trước tôi từ vô lượng kiếp trước.
Hôm nay tôi đã hoàn thành dạy 6 pháp môn tu mà các vị phật xưa đã dạy, vì còn một thời gian ngắn nữa, tôi sẽ nhập Niết Bàn để trở về nguồn cội của chính mình, cũng như các vị trước, vị phật nào trước khi rời thế giới vật lý này đều phải truyền thiền thanh tịnh lại cho các đệ tử nào đạt được bí mật thanh tịnh thiền, để người đó làm tổ sư đời thứ nhất.
Hôm nay nơi cõi Nam Diêm Phù Đề này, khi tôi kiểm thiền ông Ma Ha Ca Diếp là người đầu tiên nhận được chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệt tâm, là pháp môn mầu nhiệm không truyền theo kinh điển thông thường, mà phải truyền theo dòng riêng của nó. Do vậy hôm nay tôi kính trình lên Đức Phật cổ Nhiên Đăng cũng như vị phật quá khứ mười phương. Ông Ma Ha Ca DIếp là người đã đạt được bí mật thanh tịnh thiền, có làm kệ nói lên chỗ chân thật những thứ trong bể tánh thanh tịnh phật tánh. Nên hôm nay tôi làm lễ truyền thiền thanh tịnh này. Vậy kính xin Phật Nhiên Đăng và mười phương chư phật chứng minh cho tôi.
Trước khi hành lễ truyền thiền thanh tịnh tôi và các vị có mặt cùng: Dâng hương: “Khói hương bay khắp bầu trời xanh/ Rốt ráo tâm tôi bổn nguyện lành/ Trên khói hương này chư phật ngự/ Tôi xin hành lễ truyền thiền này”.
Đức Phật vừa đọc xong 53 câu kệ truyền thiền thanh tịnh cho ông Ma Ha Ca Diếp. Trên hư không, nhạc trời đồng loạt đánh lên. Cùng lúc tiếng pháp của Mười Phương Chư Phật đồng nói vang trùm khắp: – Chúng tôi là các vị Phật xưa, chúc mừng cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nay đã truyền xong pháp môn thiền Thanh tịnh cho ông Ma Ha Ca Diếp.
Và các Ngài đồng vang nói: “Hạnh phúc thay! Thế giới Nam Diêm Phù Đề này đã có người nhận được chánh pháp thiền thanh tịnh! Hạnh phúc thay! Pháp môn thiền Thanh tịnh bắt đầu lưu hành nơi cõi Nam Diêm Phù Đề này!Hạnh phúc thay! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền xong pháp môn thanh tịnh thiền nơi thế giới ta bà này!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét