Thứ Tư, 14 tháng 7, 2021

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa trọn bộ gồm 28 phẩm và bảy quyển download tại đây

 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường gọi tắt là kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu truyền rộng rại ở các nước Á Đông như Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc... Tương truyền, kinh Pháp Hoa được Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) thuyết giảng trên đỉnh núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa) trước khi ngài nhập Bát Niết-bàn (sa. Parinivarna), tức vào chặng đường cuối của sự nghiệp hoằng hóa chúng sinh (ngũ thời giáo): Hoa Nghiêm (Avatamsaka), A-hàm (Agama), Phương Quảng (Vaipulya), Bát Nhã (Prajnãramita) và Pháp Hoa - Niết Bàn (theo quan niệm của Thiên Thai Tông).

Kinh Pháp hoa là gì?

Kinh Pháp hoa trình bày nhiều quan điểm chủ yếu của Phật giáo Bắc Tông và có ảnh hưởng lớn đến nhiều tông phái khác nhau của Đại thừa như Thiên Thai tông (lấy kinh này làm kinh căn bản), Thiền tông, Phật giáo Nichiren (với chủ trương niệm danh tự kinh: Nam-mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh)... Kinh được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau: tiếng Trung, tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Anh, tiếng Pháp... Thông thường các dịch bản dựa trên bộ kinh dịch từ tiếng Phạn của ngài Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva) đã biến đổi chút nhiều (có thêm các phần kệ, vài phẩm...), bản tiếng Việt lưu hành phổ biến nhất có lẽ là bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh.

Sau khi Phật diệt độ, tăng đoàn phát triển mạnh mẽ và phân bố rộng rãi toàn cõi Ấn Độ (đỉnh điểm dưới thời hoàng đế Asoka). Tuy nhiên, bên cạnh sự lớn mạnh của giáo đoàn, nhiều luồng tư tưởng khác nhau về Phật học nảy sinh. Dần dần, khác biệt về hệ tư tưởng đã phân hóa tăng đoàn thành hai bộ phái chính là Thượng Tọa Bộ (gồm những bậc trưởng lão hòa thượng) và Đại Chúng Bộ (gồm những đại đức trẻ tuổi). Phái Thượng Tọa Bộ có quan điểm bảo thủ, có khuynh hướng duy trì và chấp hành nghiêm ngặt giáo pháp nguyên thủy từ thời sơ khai do Phật giảng dạy. Trong khi đó, Đại Chúng Bộ có quan điểm cấp tiến, thiên về phát triển Phật pháp thông qua tiếp thu tinh hoa giáo lý nhiều tôn giáo khác nhau (đặc biệt là Ấn Độ giáo, Hỏa giáo...) và vận dụng Phật pháp một cách mềm dẻo sao cho phù hợp với tất cả giai cấp, tầng lớp quần chúng. Thí dụ, giáo lý Nguyên thủy cho rằng quả vị cao nhất là A-la-hán trong khi đối với Đại Chúng Bộ là Phật quả (Phật Toàn giác); giáo pháp Đại Chúng Bộ có nhiều quan niệm, tư tưởng mới so với giáo pháp nguyên thủy: Không tính, Tam thân Phật hay Phật tính... Nội bộ hai phái trên tiếp tục có sự phân hóa, sau thời gian dài đã phôi nghén và nảy sinh ra nhiều bộ phái mới nữa (khoảng 18 - 20 bộ phái khác nhau). Phật giáo đã vượt xa khỏi biên cương lục địa Ấn Độ mà truyền bá sang các vương quốc Trung Á (vương quốc Bactria, vương quốc Kushan thậm chí còn vang vọng tận Hy Lạp: ảnh hưởng đến hệ thống học thuyết của các triết gia Pyrrho, Onesicritus, Hegesias thành Cyrene...), các đảo khơi xa ở Ấn Độ Dương như Sri Lanka, Maldives... thậm chí còn chạm đến các nước Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia, Việt Nam... Mỗi bộ phái có vùng tập trung riêng biệt và không ngừng hoàn thiện hóa luận thuyết của mình. Từ một hệ thống quan niệm nhân sinh gần gũi với mọi chúng sinh, Phật giáo giờ đây trở thành một tôn giáo với những triết lý vượt tầm quần chúng và xa rời khỏi nhân dân. Ngoài ra, mầm mồng Ấn Độ giáo đã nhen nhóm và cạnh tranh mạnh mẽ để giành lại ảnh hưởng trong tư tưởng nhân dân Ấn Độ. Do đó, nhiều bộ phái tiếp tục du nhập các giáo lý mới và hình thành nên Phật giáo Đại thừa (Mahayana) đồng thời họ gọi những giáo phái còn lại là Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana).


Bức phù điêu diễn tả một phần cảnh kinh Duy-ma-cật Sở thuyết và kinh Diệu Pháp Liên Hoa đời Bắc Tề
Phật giáo Đại thừa không ngừng phát triển với những đỉnh cao về thành tựu lý luận thông qua dòng văn Bát-nhã, Bảo Tích, Duy-ma-cật Sở Thuyết Kinh, Hoa Nghiêm Kinh... Các kinh điển trên thể hiện các góc nhìn mới mẻ và đa chiều về Phật giáo nhưng kèm theo đó là sự khích bác, chê bai và đôi khi là luận chiến với giáo lí Tiểu thừa (đỉnh điểm là kinh Duy-ma-cật) như xem những người tu hạnh Thanh văn, Duyên giác không phải là con Phật; xem Tiểu thừa là những kẻ đã nhận hạt giống giải thoát từ đức Phật mà không chịu gieo trồng làm chủng tử ấy hư hoại và biến mất ("Tiêu nha bại chủng")... Chính sự mâu thuẫn giữa các bộ phái càng đẩy Phật giáo vào sự suy thoái và yếu thế trước sự phát triển lớn mạnh của Ấn Độ giáo. Trước tình hình như vậy, kinh Pháp Hoa ra đời như sự xoa dịu và dung hợp tất cả các giáo lý truyền thống và mới mẻ của Phật giáo. Kinh Pháp Hoa chấp nhận mọi pháp môn khác nhau và xem tất cả thừa đều chỉ là một Phật thừa duy nhất với nhiều biểu hiện khác nhau để phù hợp với căn cơ của từng người khác nhau.

Do đó, kinh Pháp Diệu Pháp Liên Hoa đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa. Kinh được suy tôn là "Vua của các kinh" và bản thân trong phẩm Dược Vương Bồ-tát bản sự (phẩm 23) của kinh Pháp Hoa, Phật đã dạy Bồ-tát Tú Vương Hoa:

"Này Tú Vương Hoa, trong các dòng nước như sông ngòi, kênh rạch thì biển là lớn nhất; trong các kinh thì kinh Pháp Hoa này là lớn nhất. Lại như trong các núi non: thổ sơn, hắc sơn, núi Tiểu Thiết-vi, núi Đại Thiết-vi thì núi Diệu Cao là bậc nhất, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh rất là bậc thượng. Lại như trong các ngôi sao, Mặt Trăng là bậc nhất; kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong muôn trùng các kinh pháp, rất là sáng. Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, Kinh này cũng thế, hay phá tất cả các sự tối tăm, bất thiệt. Lại như trong các vua nhỏ, Chuyển Luân Thánh Vương là bậc nhất đế vương; Kinh này cũng như thế, ở trong các Kinh là bậc tôn hơn cả. Lại như Đế Thích là vua trong tam thập tam cõi trời; Kinh này cũng như thế là vua trong các kinh.

(...)

Như Phật là vua của các pháp (Pháp vương), Kinh này cũng thế là vua của các kinh."

—Phẩm 23. Dược Vương Bồ-tát Bản sự, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Ý nghĩa Kinh Pháp Hoa

Không phải ngẫu nhiên mà Kinh Pháp Hoa được xếp vào hàng “Vua của các kinh”, bởi vì Kinh thuộc về giáo lý tối thượng mà Đức Phật đã thuyết để đưa các đệ tử của Ngài lên một Cỗ xe và thành tựu Phật quả.

Đức Phật dạy: “Nhất Phật thừa là giáo lý cao siêu, chỉ dành cho hàng căn cơ thuần thục”. Cho nên, ai viết chép, thọ trì, giảng nói được Kinh này phải biết người ấy có công đức vô lượng. Nếu không nhờ có lòng tin lớn, gieo trồng căn lành từ vô lượng kiếp thì khó mà thành tựu được. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có đoạn nói: Có vị thầy Pháp Đạt một hôm đến tham bái lục Tổ Huệ Năng, vị đó đỉnh lễ Tổ ba lạy mà đầu không sát đất, Tổ nói rằng:

“Lạy là để phá trừ kiêu mạn, tỏ lòng cung kính, lạy mà đầu không chấm đất chi bằng đừng lạy”. Trong tâm ngươi hẳn có điều gì chất chứa, hãy nói ra xem? Pháp Đạt thưa: Tôi niệm Kinh Pháp Hoa đã tới ba ngàn bộ. Tổ nói: “Nếu nhà ngươi niệm đến muôn bộ, hiểu được ý Kinh, nhưng chẳng cho đó là hơn người, thì cùng đi một đường với Ta. Nay nhà ngươi ỷ vào việc tụng Kinh, nên chẳng biết lỗi”.

Rồi Tổ nói kệ:

“Lễ vốn diệt kiêu mạn

Sao đầu chẳng sát đất

Chấp ngã, tội liền sinh

Quên công, phúc cao ngất”.

Pháp Đạt nghe kệ xong, hối lỗi mà tạ rằng: “Từ nay về sau, xin khiêm cung với tất cả”.

Kinh Pháp Hoa cũng dạy một hạnh khiêm cung, nhẫn nhục qua hình ảnh Bồ Tát Tường Bất Khinh, gặp ai cũng cung kính chắp tay nói: “Tôi không dám khinh Ngài, vì trước sau Ngài cũng sẽ thành Phật”. Có người nghe sinh hoan hỷ, có người mắng nhiếc, nhưng Ngài vẫn giữ một tâm niệm khiêm nhường như thế. Vì ngài biết rõ, mọi người ai cũng có Phật tính và khả năng tu hành thành Phật. Tất cả chúng sinh, hoặc trong hiện tại hay vị lai, nếu đã từng một lần được nghe Kinh Pháp Hoa nhất định sẽ thành Phật.

Hình ảnh Bồ Tát Thường Bất Khinh giúp người tu hành dẹp bỏ được tâm ngã mạn trên đường tu. Nên Phật dạy, người trì Kinh Pháp Hoa, ví như người đào giếng trên cao nguyên, là việc làm vô cùng khó khăn, cao nguyên ví như đồng hoang sinh tử. Nước trên đó chỉ cho nguồn tâm thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng sinh. Nhưng vì vô minh che lấp nên nguồn tâm ấy không hiển lộ. Như người có trí ra sức đào mãi, nhất định cũng đến phần đất ướt, cứ như vậy mãi cũng phải đến mạch nước ngầm, tức là thấy Đạo, đào tiếp cho đến khi nước phun lên là thể nhập Phật tính, là thành tựu Phật quả.

Song, việc đào giếng có thể một năm, hai năm hay vài mươi năm rồi cũng hoàn thành, nhưng việc tu tập và hành trì theo Kinh Pháp Hoa để ngộ nhập Phật Tri Kiến “Nhất Thiết chủng trí” là sự nghiệp cửa cả một đời, nhiều đời hay nhiều A tăng kỳ hiếp cũng chưa chắc đã thành tựu, nếu ta cũng không dõng mãnh, tinh cần.

Kinh Pháp hoa diễn giải sơ lược

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có tên đầy đủ là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Hộ Niệm. Trong đó, Diệu Pháp mang ý nghĩa là Tri kiến Phật có sẵn trong mỗi chúng sinh (Phật tính) còn Liên hoa (tức hoa sen) là một loài hoa mang ý nghĩa biểu tượng cho Diệu Pháp. Sở dĩ liên hoa là dụ của Diệu Pháp do hoa sen có những đặc điểm sau:

Tri kiến Phật là Diệu Pháp vì đây là pháp vượt qua mọi pháp thế gian, không có pháp nào có thể sánh được Tri kiến Phật. Tri kiến Phật là pháp sẵn có, bất sinh - bất diệt có trong mọi chúng sinh tức mọi chúng sinh đều có Tri kiến Phật và có thể giác ngộ thành Phật. Tri kiến Phật là tư tưởng cốt lõi của kinh: nội dung kinh chủ yếu trình bày và diễn giải tư tưởng này.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa trọn bộ gồm 28 phẩm và bảy quyển:

Quý vị có thể download kinh pháp hoa có chư trọn bồ tại đây: kinh pháp hoa

Download kinh pháp hoa diễn giải sơ lược tại đây: kinhphaphoa-htthichtriquang

Ngoài ra, nếu Quý vị cần mua sách kinh pháp hoa để thuận tiện đọc tụng mỗi ngày có thể liên hệ với Hoa Đăng Đức Lương qua hotline 0934502712 hoặc đặt hàng online tại đây: 

kinh pháp hoa pdf,

kinh pháp hoa diễn giải,
kinh pháp hoa pdf download,
kinh pháp hoa có chư trọn bồ,
kinh pháp hoa là gì,
kinh diệu pháp liên hoa trọn bồ,
chép kinh pháp hoa,

Thứ Ba, 6 tháng 7, 2021

Chú đại bi là gì? Tụng chú đại bi tại đây

Nhiều anh chị mới tìm hiểu về Phật pháp thường có thắc mắc không rõ chú đại bi là gì? chú đại bi tiếng anh viết như thế nào? hay chú đại bi 5 biến, chú đại bi 7 biến là gì và các tải file chú đại bi pdf ở đâu? Hôm nay Hoa Đăng Đức Lương sẽ giải đáp và cung cấp cho các anh chị những thông tin cần thiết đó ngay trong bài viết này. 

Chú đại bi là gì

 

Chú Đại Bi, hay Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani), là bài chú căn bản minh họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva). Bài chú này còn có các tên gọi là: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni…
 
Theo kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc Hội kiến của các Phật, bồ tát, các thần và vương. Cũng như câu Om Mani Padme Hum rất phổ biến ngày nay, Đại Bi chú là chân ngôn phổ biến cùng với phật Quán Thế Âm ở Đông Á, bài chú này thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh,quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!
Chân ngôn này được trích từ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh. Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, con có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.", rồi sau đó đọc Chú Đại Bi.
 
"Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng."

Phiên bản tiếng Việt của Chú Đại bi như sau:

Thiên thủ Thiên nhãn vô ngại Đại bi Tâm Đà la ni
 
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bác ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án. tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì. hế rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng. a thể dựng, tát bà tát đa na ma bà già. ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án! a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. cu lô cu lô kiết mông. độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, na ra cẩn trì. địa rị sắc ni na, Ba dạ ma na. ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ. Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, Ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
Mỗi câu trong bài chú tượng trưng với từng ý nghĩa và hình ảnh một vị Phật, Bồ Tát, Tôn Giả hoặc Thánh Thần do Đức Quan Âm Bồ Tát hóa thân

Bản dịch tiếng việt của chú Đại Bi

Đây là bản dịch tiếng Việt hiện đại từ văn bản cổ điển của sử gia sử gia Lê Tự Hỷ (Vn) và Lokesh Chandra (Ấn Độ):
01. Nam mô hát (hoặc: hắc) ra đát na đá ra dạ da — Kính lạy Tam bảo
02. Nam mô A rị a — Kính lạy Chư Thánh hiền
03. Bà lô yết đế thước bát ra da — Quán Thế Âm (Avalokiteśvara)
04. Bồ đề Tát đá bà da— Bồ Đề Tát
05. Ma ha Tát đá bà da — Sự vị đại
06. Ma ha ca lô ni ca da — Lòng Từ Bi vĩ đại
07. Án — Án
08. Tát bàn ra phạt duệ — Người bảo vệ khỏi mọi nguy hiểm
09. Số đát na đát tả — Vượt qua nỗi sợ hãi
10. Nam mô tất cát lị đóa y mông A rị a — Kính lạy và sùng bái chư Thánh Thiên
11. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà — Quán Thế Âm (Avalokisteśvara)
12. Nam mô Na ra cẩn trì — Kính lạy Nīlakaṇṭha (Nīlakaṇṭha =tên= Cổ Xanh )
13. Ha rị Ma ha Bàn đà sa mế — Con sẽ tụng lên bài Tâm Chú
14. Tát bà a tha đậu thâu bằng — Làm cho tất cả chúng sinh chiến thắng
15. A thệ dựng — Bất khả chiến bại
16. Tát bá tát đá ( Na ma bà tát đá) — Loại bỏ những ảo tưởng thanh lọc tất cả chúng sinh
17. Ma phạt đặc đậu — Trên những con đường của sự tồn tại
18. Đát điệt tha. Án — Là như sau
19. A bà lô hê —Ánh huy hoàng
20. Lô ca đế — Siêu việt
21. Ca la đế (hoặc) Ca ra đế) — Chiếu sáng
22. Di Hê rị (hoặc : Ha ri) - Ôi Harị (là 1 trong các tên của Vishnu)
23. Ma ha Bồ đề tát đỏa — Chư Đại Bồ Tát
24. Tát bà Tát bà — Tất cả chúng sinh
25. Ma ra Ma ra — Hãy nhớ, hãy nhớ …
26. Ma hê Ma hê rị đà dựng — …bài Tâm Chú của con
27. Câu lô câu lô yết mông — Hành động, hãy hành động
28. Độ lô độ lô, Phạt sà da đế — Tiếp tục, hãy tiếp tục, Cho đến khi chiến thắng
29. Ma ha phạt sà da đế — Chiến thắng vẻ vang
30. Đà ra đà ra — Giữ chặt
31. Địa rị ni — Hỡi Đức Vua …
32. Thất Phật ra da — … Của Địa Cầu
33. Da ra Da ra (hoặc : Giá ra Gia rá) — Tiến lên Tiến lên
34. Ma ma phạt ma ra — Thần tượng …
35. Mục đế lệ — … không tì vết …
36. Di hê di hê — … Hãy đến, hãy đến…
37. Thất na Thất na — … với con rắn màu đen …
38. A ra sấm Phật ra xá lị — … phá hủy …
39. Phạt sa phạt sấm — …chất độc …
40. Phật ra xá da — … Đấng Tối cao 
41. Hô lô Hô lô ma ra — Xin nhanh lên, xin nhanh lên, hỡi Ngài Dũng Mãnh
42. Hô lô Hô lô hê rị — Xin nhanh lên , Xin nhanh lên , hỡi Ngài Hari
43. Ta ra Ta ra (hoặc : Sa ra Sa ra) — Hãy xuống Hãy xuống
44. Tất lị Tất lị — Đến Đến
45. Tô lô Tô lô — Hạ cố Hạ cố
46. Bồ đề dạ Bồ đề dạ — Bậc đã giác ngộ Bậc đã giác ngộ
47. Bồ đà dạ Bồ đà dạ — Xin ngài hãy giác ngộ con, Xin ngài hãy giác ngộ con
48. Di đế rị dạ — Nhân từ
49. Na ra cẩn trì — Nīlakaṇṭha
50. Địa rị sắt ni na — Xin ngài hãy làm cho tim con an lạc …
51. Ba dạ ma na — … bằng cách hiện ra trong tim con 
52. Ta bà ha (hoặc : Sa bà ha) - Con xin đón mừng Ngài
53. Tất đà dạ - Sư phụ đã hoàn thành
54. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
55. Ma ha Tất đà dạ — Người Thầy vĩ đại đã hoàn thành
56. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
57. Tất bà dụ nghệ - Tâm trí hoàn toàn …
58. Thất phàn ra da - … giác ngộ 
59. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
60. Na ra cẩn trì — Nīlakaṇṭha — (Nīlakaṇṭha )
61. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
62. Ma ra na ra — Người có gương mặt Heo rừng đực
63. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
64. Tất ra tăng a Mục da da — Người có gương mặt Sư tử
65. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
66. Sa bà ma ha a tất đà dạ — Người mang trong tay cái chùy
67. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
68. Giả cát ra a tất đà dạ — Người cầm trên tay chiếc bánh xe
69. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
70. Ba đà ma yết tất đà dạ — Người mang trên tay hoa sen
71. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
72. Na ra cẩn trì Bàn dà ra da — Nīlakaṇṭha , Đấng linh thiêng nhất
73. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
74. Ma bà lị thắng yết ra dạ — Để được mạnh mẽ, để được tốt lành
75. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
76. Nam mô hát (hoặc: hắc) ra đát na đá ra dạ da — Kính lạy Tam bảo
77. Nam mô A rị a — Kính lạy Chư Thánh hiền
78. Bà lô yết đế — Avalokite …( phần đầu của tên)
79. thước bát ra da — … svaraya (phần cuối của tên = Avalokisteśvara = Quán Thế Âm)
80. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài
81. Án. Tất điện đô – (xem mục 83)
82. Mạn đá ra — (xem mục 83 )
83. Bạt đà da — Án.Cầu xin những lời trì chú trở thành hiện thực.
84. Ta bà ha - Con xin đón mừng Ngài.
Mỗi hình tượng của đức quán thế âm bồ tát lại cầm các pháp bảo như chuông loa,loa ốc,bàng bài,nhành dương liễu và tịnh bình,...v.v Mỗi pháp bảo ấy tượng trưng cho 42 thủ nhãn ấn pháp của đức quán âm nghìn tay nghìn mắt

Bản tiếng phạn của chú đại bi

Sau đây là phần tái hiện văn bản bằng tiếng Phạn IAST dựa trên các công trình của sử gia Lê Tự Hỷ (Vn) ) và Lokesh Chandra (Ấn Độ). Nó được chia thành 18 câu có cấu trúc ngữ pháp, không giống trường hợp của văn bản chuyển ngữ được đọc trong các nghi lễ tôn giáo, được chia thành 84 câu, để tôn trọng nhịp điệu thuận theo quy định của nghi lễ (Người ta có thể nhận thấy rằng các thuật ngữ "dhāraī "và" mantra "được sử dụng luân phiên).

I. Lời chào mở đầu :

01. Namo ratna-trayāya
02. Nama āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya mahā-sattvāya mahā-kāruṇikāya

II. Danh hiệu của đức Quán Tự Tại :

03. Oṃ sarva-bhayeṣu trāṇa-karāya tasya namaskṛtvā imam Āryāvalokiteśvara-stavanaṃ Nīlakaṇṭha-nāma

III. Sự tụng lên câu kệ về Công đức của bài Tâm Chú

04. hṛdayaṃ vartayisyāmi sarvārtha-sādhanaṃ śubham
05. ajeyam sarva-bhūtānām bhava-mārga-viśodhakam

IV. Dhāraṇī (Các câu chú) :

06. Tadyathā: Om Ālokapate lokātikrānta
07. Ehi Hare mahā-bodhisattva sarpa-sarpa smara- smara mama hṛdayam
08. Kuru-kuru karma dhuru-dhuru vijayate mahā-vijayate
09. Dhara-dhara dharaṇī-rāja cala-cala mama vimala-mūrte
10. ehi ehi kṛṣṇa-sarpopavīta viṣa- viṣaṃ praṇāśaya
11. Hulu-hulu Malla hulu-hulu Hare sara-sara siri-siri suru-suru
12. Bodhiya-bodhiya bodhaya-bodhaya maitreya Nīlakaṇṭha darśanena prahlādaya manaḥ svāhā
13. siddhāya svāhā mahā-siddhāya svāhā siddhayogīśvarāya svāhā
14. Nīlakaṇṭhāya svāhā varāha-mukhāya svāhā narasiṃha-mukhāya svāhā
15. Gada-hastāya svāhā cakra-hastāya svāhā padma-hastāya svāhā
16. Nīlakaṇṭha-vyāghrāya svāhā Mahābali-Śaṅkarāya svāhā

V. Lời chào kết thúc :

17. Namo ratna-trayāya Nama āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya svāhā
18. Oṃ sidhyantu me mantra padāni svāhā.

chú đại bi 5 biến, chú đại bi 7 biến là gì?

Chú Đại Bi 5 biến mang ý nghĩa tích tụ và phát xung năng lượng Từ Bi từ chính bản thân mỗi con người. Tụng chú đại bi 5 biến là sẽ giúp lòng yêu thương phát sinh ở khắp chúng sinh xung quanh nguồn phát để diệt trừ những điều xấu xa, tâm tà, hung ác.
Chú Đại Bi 5 biến là bài kinh chú được trì tụng lại 5 lần. Quý Phật tử có thể hiểu theo cách đơn giản là bài Kinh Chú Đại Bi dịch ra tiếng Việt cơ bản có 84 dòng. Tùy tâm cũng như nhiều yếu tố liên quan khác về thời gian, không gian, sức khỏe… mà hành giả có thể trì tụng lặp đi lặp lại bài kinh gốc bao nhiêu lần tùy ý. Mỗi lần là một biến. Hành giả có thể tụng 3 lần, 5 lần, 7 lần, 21 lần, 49 lần hay 108 lần… Đến đây thì chắc hẳn quý Phật tử cũng đã hiểu được sự khác nhau Chú Đại Bi 3 – 5 – 7 – 21 – 49 biến là gì rồi phải không nào?

chú đại bi tiếng anh

Chú đại bi tiếng anh là The Great Compassion Mantra. Dưới đây là 1 bài chú đại bi dịch tiếng anh, mời quý Phật tử quan tâm tham khảo: 
Nammo Ratna Trayaya
Nammo Arya Jnana
Sagara Vairochana
Byuharatchaya Tathagataya
Arahate
Samyaksam Buddhaya
NammoSarwa Tathagathe Bhyay
Arahata Bhyah
Samyaksam Buddhe Bhvah
Nammo Arya Avalokite
Shoraya Bodhisattvaya
Maha Sattvaya
Maha Karunikaya
Tadyata Om Dara-dara
Diri-diri, Duru-duru
Itte We Itte Chale Chale
Purachale Purachale
Kusume Kusuma
Wa Re Ili Mili Chiti Jvalam Apanave Shoha
 

chú đại bi pdf tải tại đây: chú đại bi pdf

 

Cách tu tập để chuyển hóa bất thiện thành Chánh Niệm - transforming unwholesome mind states

 Cần tu tập để chuyển hóa bản thân, biến bất thiện thành hạt giống của tình thương và sự hiểu biết. Thay đổi suy nghĩ của bạn Sáu bước để ch...